22/02/2015 7:49:39 AM
Một số thành tựu chính của bảo tồn ĐDSH
Phát triển hệ thống khung luật pháp và chính sách quốc gia về bảo tồn ĐDSH
KHHĐ ĐDSH năm 1995 do Chính phủ ban hành đã xác lập các dự án hành động cần đầu tư thực hiện trong giai đoạn 1996-2000. Đến năm 2007, để phù hợp với mục tiêu và bối cảnh phát triển kinh tế-xã hội trong xu hướng hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, Chính phủ đã phê duyệt KHHĐ quốc gia ĐDSH đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 nhằm thực hiện Công ước ĐDSH và Nghị định thư Cartagena về An toàn sinh học. Tiếp đó, với tầm nhìn mới về ĐDSH là nền tảng của nền kinh tế xanh, bảo tồn ĐDSH là giải pháp ứng phó với biến đổi khí hậu, Chiến lược quốc gia về ĐDSH đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 đã được Chính phủ ban hành vào năm 2013.
Một trong những thành tựu quan trọng nhất chính là Luật ĐDSH đã được Quốc hội thông qua ngày 13/11/2008 và có hiệu lực từ ngày 01/7/2009. Đây là khung luật đầu tiên của Việt Nam quy định về bảo tồn và phát triển bền vững ĐDSH; quyền và nghĩa vụ của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trong bảo tồn và phát triển bền vững ĐDSH với cách tiếp cận ĐDSH là một đối tượng tổng thể thống nhất (các hệ sinh thái, loài và nguồn gen). Luật ĐDSH được đánh giá là rất tiến bộ, có tầm nhìn, hệ thống và tiếp cận đầy đủ các cam kết và chuẩn mực quốc tế về bảo tồn ĐDSH. Bên cạnh đó, các khung luật khác điều chỉnh công tác bảo vệ, bảo tồn và phát triển các thành phần ĐDSH cũng được hoàn thiện như Luật BV-PTR (2004), Luật Thủy sản (2003), Luật Tài nguyên nước (2012). Luật BVMT sửa đổi (2013) tiếp tục được sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện so với Luật ban hành năm 1995, 2005 đã cung cấp các chế tài hỗ trợ cho công tác bảo vệ ĐDSH, nhất là về đánh giá tác động môi trường. Các quy định của Bộ Luật Hình sự sửa đổi (2009) cũng đã có một số quy định xử lý vi phạm hình sự liên quan đến ĐDSH.
Hệ thống văn bản dưới luật liên quan đến bảo tồn và phát triển ĐDSH cũng đã được nhà nước xây dựng và ban hành khá đầy đủ. Chỉ tính riêng từ năm 2009 khi Luật ĐDSH có hiệu lực, đã có 08 Nghị định, 09 Quyết định và 12 Thông tư được ban hành, thể chế hóa các chiến lược, quy hoạch, cơ chế về bảo tồn và phát triển bền vững ĐDSH Việt Nam. Ví dụ: Chiến lược quốc gia về ĐDSH đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030; Quy hoạch tổng thể bảo tồn ĐDSH của cả nước đến năm 2020, định hướng đến năm 2030; Chiến lược quản lý hệ thống rừng đặc dụng (RĐD), Khu bảo tồn (KBT) biển, KBT vùng nước nội địa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030; Quy hoạch hệ thống KBT biển Việt Nam; hay Quy hoạch hệ thống RĐD cả nước đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.
Hệ thống các khu BTTN tiếp tục được quy hoạch, thành lập, nâng cấp và mở rộng
Việt Nam đã quy hoạch và thành lập được 164 KBT RĐD, trong đó có 30 VQG, 58 khu dự trữ thiên nhiên, 11 KBT loài và sinh cảnh, 45 khu bảo vệ cảnh quan và 20 khu rừng thực nghiệm nghiên cứu khoa học với tổng diện tích gần 2,2 triệu ha. Dự kiến đến năm 2020 hệ thống này sẽ mở rộng đến 2,4 triệu ha với 176 khu (34 VQG, 58 KBT thiên nhiên, 14 KBT loài và sinh cảnh, 61 khu bảo vệ cảnh quan và 09 khu rừng nghiên cứu, thực nghiệm. Với các hệ sinh thái khác, nhà nước cũng đã quy hoạch 16 KBT biển và 45 KBT vùng nước nội địa. Ngoài ra, trong hệ thống cũng đã có 09 khu dự trữ sinh quyển thế giới, 02 khu di sản thiên nhiên, 04 khu di sản ASEAN và 06 khu đất ngập nước Ramsar được quốc tế công nhận. Bên cạnh đó, các hình thức bảo tồn chuyển chỗ về ĐDSH cũng được phát triển trong cả nước mang lại hiệu quả cao về bảo tồn nguồn gen thực vật, động vật quý, hiếm, góp phần xóa đói giảm nghèo ở một số địa phương. Đó là những thành tựu lớn, cho thấy sự thay đổi nhận thức về cân bằng giữa BTTN và phát triển kinh tế, mà quan trọng hơn đó chính là sự nỗ lực, quan tâm, cam kết và hành động của nhà nước vì các lợi ích chung của xã hội, trước mắt và lâu dài.
Hệ thống tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về ĐDSH được củng cố và tăng cường
Luật pháp Việt Nam quy định Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về ĐDSH và giao trách nhiệm cho Bộ TN-MT chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước này. Bộ NN-PTNT và các bộ, cơ quan ngang bộ khác cũng được Chính phủ phân công thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước theo lĩnh vực ngành dọc do mình phụ trách, trong khi UBND các cấp được phân cấp quản lý ĐDSH trong phạm vi nhiệm vụ và quyền hạn theo địa bàn. Nhìn chung, bộ máy quản lý nhà nước về ĐDSH ở cấp trung ương khá đầy đủ, rộng và toàn diện, trong đó Bộ TN-MT và Bộ NN-PTNT là những đầu mối quản lý chính thông qua Tổng cục Môi trường, Tổng cục Lâm nghiệp và Tổng cục Thủy sản. Với hệ thống thuộc ngành TN-MT, Cục Bảo tồn ĐDSH là cơ quan quản lý đầu mối ở cấp trung ương và đã có cơ cấu chức năng đến cấp tỉnh trực thuộc Sở TN-MT. Trong khi đó, ngành lâm nghiệp và thủy sản đã có bộ máy quản lý nhà nước về tài nguyên rừng, thủy sản khá đầy đủ từ trung ương đến tỉnh, huyện và cả xã (đối với lâm nghiệp), nhất là lực lượng kiểm lâm, kiểm ngư và ban quản lý các KBT. Hệ thống này đã cho phép nhà nước tổ chức triển khai các chính sách và luật pháp về bảo tồn ĐDSH từ trung ương đến địa phương, là động lực góp phần vào các thành tựu bảo tồn ĐDSH Việt
Nâng cao nhận thức xã hội và sự tham gia của các bên liên quan vào bảo tồn ĐDSH
Hệ thống tổ chức quản lý và luật pháp được củng cố, phát triển cho thấy nhận thức, mối quan tâm và sự đồng thuận của nhà nước cũng như toàn xã hội về bảo tồn, phát triển ĐDSH ở Việt Nam ngày càng nâng cao. Không chỉ được lồng ghép vào trong hệ thống giáo dục, đào tạo chính thức của nhà nước, nhất là bậc phổ thông và đại học, ĐDSH đã được thông tin và truyền bá qua nhiều kênh, hình thức không chính thức khác như các diễn đàn, hội thảo, tập huấn và giáo dục môi trường. 20 năm qua đã chứng kiến sự tham gia ngày càng mạnh mẽ của báo chí vào công tác quản lý bảo tồn ĐDSH, thu hút sự quan tâm của người dân đối với việc bảo vệ các loài ĐVHD nguy cấp, quy hiếm, phản biện các dự án phát triển có ảnh hưởng đến các VQG/KBT hay các dòng sông. Quan trọng hơn, sự kết nối giữa cơ quan lập pháp (Quốc hội), cơ quan hành pháp (quản lý nhà nước) và nhân dân trong quá trình xây dựng chính sách, pháp luật về bảo tồn ĐDSH đã được thể hiện.
Một thành tựu quan trọng khác của công tác bảo tồn ĐDSH ở Việt Nam trong 20 năm qua chính là huy động được nguồn lực tài chính, kỹ thuật và sự tham gia tích cực của các tổ chức đa phương, tổ chức phi chính phủ quốc tế và trong nước. UNDP, WB, JICA, UNEP, GIZ, IUCN, WWF, FFI, WCS, Birdlife International, TRAFFIC là những tổ chức đã có những đóng góp đáng kể cho quá trình xây dựng chính sách, pháp luật về bảo tồn ĐDSH, cũng như hỗ trợ thiết lập và quản lý nhiều VQG/KBT có giá trị ĐDSH toàn cầu. Thông qua các dự án hỗ trợ, nhiều loài động, thực vật mới có giá trị cho khoa học đã được phát hiện, phát hiện lại và được đầu tư bảo tồn như Sao la, Mang lớn, một số loài linh trưởng, Chim trĩ… Bên cạnh đó, sự hình thành các tổ chức xã hội trong nước như VACNE, ENV, PanNature, MCD, GreenVIET, Wildlife At Risk… cũng đã gia tăng nỗ lực đóng góp cho bảo tồn ĐDSH ở Việt Nam từ cả hiện trường đến diễn đàn chính sách của quốc gia, quốc tế. Xu hướng các doanh nghiệp và tổ chức cộng đồng tham gia TBTN cũng đang được hình thành, hứa hẹn tạo nhiều nguồn lực cho bảo vệ các giá trị và di sản ĐDSH của Việt Nam.
Ảnh
minh họa: Trịnh Lê Nguyên
Thách thức, bất cập và khuyến nghị hướng khắc phục, cải thiện
Đã có nhiều nghiên cứu, đánh giá và bàn luận về bất cập và thách thức của công tác bảo tồn ĐDSH ở Việt
- Sự phân tán, chồng chéo và thiếu tập trung của hệ thống cơ cấu tổ chức quản lý nhà nước về ĐDSH được xem là bất cập lớn, có thể gây ra những hệ lụy không đáng có trong công tác quản lý bảo tồn ĐDSH hiện nay.
- Các nhà hoạch định chính sách phát triển chưa thực sự quan tâm, chưa coi trọng giá trị đích thực của các dịch vụ hệ sinh thái và vật liệu di truyền từ nguồn vốn tự nhiên. Sự hiểu biết sâu sắc và đánh giá đúng giá trị của ĐDSH trong nền kinh tế xanh phải là nguyên tắc cơ bản của những cân nhắc và ra quyết định cho các chính sách đầu tư bảo tồn ĐDSH.
- Thiếu thông tin, dữ liệu và hiểu biết đầy đủ, cập nhật về hiện trạng ĐDSH cũng như dịch vụ hệ sinh thái (HST) để lượng giá qua kênh kinh tế vĩ mô đưa vào tài khoản quốc gia hoặc địa phương; giá trị đóng góp của tài nguyên ĐDSH cho hệ thống kinh tế quốc gia chưa được tính toán và được đưa vào GDP hay chỉ số kinh tế khác.
- Các chính sách hiện hành mới chỉ chú trọng đánh giá sự hao mòn của các tài sản do con người tạo ra, mà chưa công nhận sự hao mòn của hệ sinh thái, của các nguồn gen tự nhiên. Đó là một trong những lý do dẫn đến thất thoát suy giảm HST, sự tuyệt chủng các loài quý hiếm như tê giác hai sừng, tê giác một sừng, bò xám. Công tác bảo tồn nhiều loài động thực vật nguy cấp, quý hiếm khác vẫn chưa được các nhà hoạch định chính sách quan tâm đứng mức.
- Tình trạng khai thác, vận chuyển, buôn bán và tiêu thụ trái phép các loại động vật, thực vật hoang dã nguy cấp, quý hiếm chưa được ngăn chặn, vẫn còn là vấn đề nan giải trong việc chấp hành luật pháp hiện nay.
Cải thiện và tăng cường hiệu quả bảo tồn và phát triển bền vững ĐDSH ở Việt Nam chỉ có thể được thực hiện khi có các cam kết mạnh mẽ của cả hệ thống chính trị từ trung ương đến địa phương bên cạnh các đầu tư và hành động can thiệp có tính hệ thống, chiến lược và nhất là sự đồng thuận đi kèm với sự tham gia đầy đủ của các bên có trách nhiệm và lợi ích liên quan. Một số khuyến nghị sau đây nên được xem xét nhằm cải thiện hiệu quả của bảo tồn ĐDSH:
- Công tác quản lý nhà nước về ĐDSH cần thiết phải quy về một mối nhằm tạo ra sự đổi mới trong xây dựng, điều chỉnh chính sách, luật pháp và thống nhất nguồn lực trong quản lý, bảo tồn ĐDSH trên toàn quốc.
- Nhà nước cần có chế tài bắt buộc các nhà đầu tư, các doanh nghiệp kinh doanh có liên quan đến thương mại sinh học chi trả dịch vụ ĐDSH và HST. Cần thiết lập các chỉ tiêu bồi hoàn ĐDSH để khắc phục hậu quả nhằm làm thay đổi tình trạng suy giảm, suy thoái tài nguyên, tránh tình trạng người dân địa phương và nhà nước phải gánh chịu thiệt hại như hiện nay.
- Phải đề cao giá trị và củng cố hiệu quả quản lý của hệ thống KBT hiện có, khai thác có hiệu quả và bền vững hệ thống này; đảm bảo chia sẻ lợi ích công bằng để góp phần cải thiện sinh kế và tình trạng nghèo đói của các cộng đồng nông thôn, miền núi, hải đảo có đời sống đang phụ thuộc vào các giá trị hữu hình, vô hình của hệ thống này.
-Tăng cường năng lực nghiên cứu lượng giá về kinh tế – môi trường của các HST và ĐDSH, bao gồm cả kho tàng tri thức bản địa của các dân tộc mọi miền đất nước, làm cơ sở cho các chính sách phù hợp trong bảo tồn và phát triển.
- Đầu tư thích đáng, bảo đảm ngân sách cho việc thực thi chiến lược bảo tồn ĐDSH Việt Nam đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 mà Chính phủ đã phê duyệt. Xem đầu tư cho sự nghiệp bảo tồn ĐDSH là đầu tư cho phát triển bền vững đất nước.
- Bảo tồn và phát triển bền vững ĐDSH là quyền lợi cũng là nghĩa vụ của mọi người trong xã hội, vì vậy việc đưa ra chính sách phải đảm bảo tính thuyết phục để các tổ chức chính trị, dân sự tham gia bảo tồn ĐDSH với tinh thần trách nhiệm cao. Các chính sách phải đủ mạnh để xã hội hóa nguồn lực góp phần thực thi trong các hành động chiến lược bảo tồn ĐDSH của đất nước.
Giáo sư TSKH Đặng Huy Huỳnh, Chủ tịch hội Động vật học Việt
Theo
Bản tin Chính sách Quý IV/2015, PanNature
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét